3 thách thức lớn của kinh tế Việt Nam trong năm 2011
02/02/2011
Trong năm Tân Mão, kinh tế Việt Nam vẫn sẽ phải đối
mặt với bài toán lạm phát, lãi suất cao. Cùng với đó là sức ép lớn từ
vấn đề tỷ giá tiền đồng so với đôla Mỹ và Nhân dân tệ. Những ẩn số này
đã được Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thành chia sẻ với một góc nhìn tương đối độc
đáo trong buổi hội thảo do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI) tổ chức trong những ngày cuối năm Canh Dần.
|
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thành. Ảnh: Nhật Minh |
Theo Tiến sĩ Thành, nguy cơ lạm phát tăng cao là điều
hiển hiện. Tuy nhiên, việc đi tìm nguyên nhân cũng như những động lực
chính thúc đẩy giá cả tăng cao trong năm 2011 lại đưa đến những kết quả
rất khác nhau.
“Năm nay, người ta nhắc nhiều đến chuyện tăng giá một
số mặt hàng cơ bản, tăng lương, khả năng điều chỉnh tỷ giá… có thể thúc
đẩy lạm phát. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng những yếu tố này chỉ khiến
giá cả tăng một lần, không phải là động lực liên tục thúc đẩy lạm phát”,
Tiến sĩ Thành nhận định.
Yếu tố liên tục thúc đẩy lạm phát trong những năm gần
đây, theo chuyên gia kinh tế này, là tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ
thống ngân hàng. Thống kê từ cuối năm 2005 của Tiến sĩ Thành và các đồng
nghiệp tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright cho thấy việc lạm
phát tăng cao thường có độ trễ khoảng 7 tháng so với các thời điểm bùng
phát về tăng trưởng tín dụng. Ngược lại, khi tín dụng được thắt chặt thì
lạm phát cũng giảm sau đó khoảng hơn nửa năm.
Về mặt lý thuyết, các chuyên gia kinh tế cho rằng muốn
lạm phát giảm thì cần thắt chặt tiền tệ, đồng nghĩa với việc giảm tín
dụng. Tuy nhiên, do nhu cầu thúc đẩy tăng trưởng cũng như tạo thanh
khoản cho thị trường tài chính, Tiến sĩ Thành cho rằng cung tín dụng vẫn
là một bài toán không dễ giải đối với các nhà hoạch định chính sách
trong năm nay.
Cùng với lạm phát, một
nút thắt khác của nền kinh tế trong năm 2011 là lãi suất cao.
Chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu chính sách Nguyễn Xuân Thành cho
rằng 3 nguyên nhân chính dẫn đến vướng mắc này của kinh tế, trong đó bao
gồm cả câu chuyện lạm phát.
|
Diễn biến lạm phát trong năm 2010. Số liệu: GSO |
Nguyên nhân thứ 2, là điểm đến của các dòng vốn tại
Việt Nam. “Tại sao trong năm 2010 tín dụng tăng 30%, tổng phương tiện
thanh toán tăng 25% mà doanh nghiệp vẫn thiếu hoặc không tiếp cận được
vốn?”, Tiến sĩ Thành đặt câu hỏi.
Ông Thành khẳng định một phần lớn tín dụng của các
ngân hàng thương mại trong năm 2010 đã bị chảy vào khu vực công thông
qua con đường trái phiếu. Trái phiếu vừa lãi suất cao, lại được nhà băng
sử dụng làm phương tiện cầm cố để vay vốn từ ngân hàng trung ương dẫn
đến một vòng luẩn quẩn về của dòng tiền. “Vốn do vậy không đến được tay
doanh nghiệp”.
Nguyên nhân thứ 3 khiến lãi suất cao, theo Tiến sĩ
Thành, có liên quan đến thanh khoản của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là
thanh khoản về ngoại tệ: “Không chỉ tiền đồng cao, lãi suất đôla Mỹ hiện
cũng được nhiều ngân hàng đẩy lên 6% một năm. Chúng ta có quyền đặt câu
hỏi tại sao lãi suất trong nước lại cao như vậy khi mà thế giới hiện
cho nhau vay đôla Mỹ với lãi suất 0-0,5% một năm?”.
Theo lý giải của chuyên gia này, vào giữa năm 2010, đã
có một đợt bùng nổ cho vay ngoại tệ tại các ngân hàng (tăng trưởng tín
dụng ngoại tệ 2010 lên tới 49%). Hệ quả là đến thời điểm này, nhà băng
phải hối hả huy động ngoại tệ để bù đắp các khoản cho vay.
“Bài toán lãi suất cao chỉ có thể giải nếu nền kinh tế
chịu đau thương ở 2 khu vực. Khu vực tiền tệ cần thắt chặt để giảm được
kỳ vọng lạm phát xuống 6-7%. Kèm theo đó là các biện pháp tích cực
(tăng vốn, sáp nhập…) nhằm cải thiện độ an toàn của hệ thống ngân hàng.
Nếu làm tốt được điều này, lãi suất có thể giảm về 9-10% trong năm nay”,
Tiến sĩ Thành hiến kế.
Bài toán thứ 3, đồng thời cũng là bài toán nan giải
nhất với kinh tế Việt Nam trong năm tới, theo Tiến sĩ Thành là nút thắt
tỷ giá, vốn liên quan trực tiếp tới tình trạng thâm hụt thương mại.
Chênh lệch cán cân xuất - nhập khẩu của Việt Nam trong
năm 2010 là âm 12,5 tỷ USD, trong đó thâm hụt với Trung Quốc là 13 tỷ
USD. Theo Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thành, chính việc thâm hụt mậu dịch nặng
nề với nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới đã khiến Việt Nam phải chịu sức ép
lớn về tỷ giá, do chính sách đối với đồng tiền của 2 nước trái ngược
nhau.
“Đồng Việt Nam đang được định giá cao so với đôla Mỹ.
Bằng chứng là tỷ giá tự do là 21.000 đồng đổi một USD trong khi chính
thức chỉ 19.500 đồng. Trong khi đó, Trung Quốc lại duy trì một chính
sách đồng Nhân dân tệ yếu. Chính điều này đã khiến đồng Việt Nam bị đánh
giá quá cao so với Nhân dân tệ”, Tiến sĩ Thành phân tích.
Theo chuyên gia của Chương trình Giảng dạy kinh tế
Fulbright, do bất lợi tỷ giá, hàng hóa Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn
trong quan hệ thương mại với Trung Quốc. Thâm hụt mậu dịch, do đó càng
bị đào sâu, dẫn đến sức ép về tỷ giá.
“Đề khắc phục tình trạng này, nền kinh tế một lần nữa
phải chấp nhận thương đau khi tiến hành điều chỉnh tỷ giá, sao cho đồng
tiền không bị định giá quá cao. Tuy nhiên, làm việc này vào thời điểm
nào, như thế nào để đồng tiền không phải chịu thêm sức ép mới là bài
toán thực sự khó”, Tiến sĩ Thành nhận định.