Tình kinh tế trong 2 tháng đầu năm 2011 cho thấy, tình hình kinh tế vĩ mô gặp khó khăn hơn năm 2010.
Áp lực đối với ổn định kinh tế vĩ mô
Mặc dù tình hình này đã có nhiều dấu hiệu từ những tháng cuối năm 2010, nhưng thực tế nghiêm trọng hơn chúng ta dự đoán.
Thứ nhất là áp lực lạm phát cao lên năm 2011. Càng
khó khăn hơn khi chúng ta phải chống lạm phát trong điều kiện lãi suất
(LS) cao. Về nguyên tắc, muốn chống lạm phát thì phải tăng LS. Nhưng LS
hiện nay đã cao nên không thể tăng được nữa. Nghĩa là công cụ tiền tệ bị
vô hiệu hóa một phần.
Thứ hai là tỷ giá. Tình trạng 2 giá trên thị trường
đã tồn tại từ những tháng cuối năm 2010, nên đến nay việc điều chỉnh tỷ
giá là điều đương nhiên. Việc điều chỉnh vừa rồi là hợp thức hóa một mặt
bằng tỷ giá đã hình thành, chứ không phải là phá giá hay làm đồng VN
mất giá.
Thứ ba là tình trạng nhập siêu, thâm hụt cán cân vãng
lai. Mặc dù năm 2010 xuất khẩu đã tăng ngoạn mục, lên tới hơn 26%; đặc
biệt, ngân sách năm 2010 lại bội thu hơn 100.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, 2
yếu tố rất tích cực này chưa thể bù được tình trạng nhập siêu cao và bội
chi ngân sách nhà nước.
Một khó khăn nữa về phía doanh nghiệp là vốn trung
hạn luôn luôn thiếu vì nguồn huy động tiết kiệm năm 2010 chủ yếu chỉ có
ngắn hạn. Bên cạnh đó, tình hình thế giới lại không thuận lợi. Nguy cơ
tăng giá dầu, giá lương thực thực phẩm... dẫn đến việc tiềm ẩn các cơn
sốt giá...
Trong bối cảnh như vậy, kinh tế Việt Nam năm 2011 gặp
không ít khó khăn. Đó là lý do, đầu năm Chính phủ đưa ra thông điệp tập
trung ổn định vĩ mô.
Một trong những vấn đề quan trọng đặt ra trong bối
cảnh hiện nay là phải tạo niềm tin cho thị trường. Sự biến động tỷ giá
trong những ngày qua, sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh tăng
9,3% và giảm biên độ giao dịch còn 1% là do thị trường chưa thực sự tin
tưởng vào khả năng kiềm chế lạm phát, nghĩa là lạm phát kỳ vọng còn rất
lớn. Bên cạnh đó, vẫn còn tâm lý tiếp tục găm giữ ngoại tệ, trong điều
kiện nền kinh tế bị đô-la hoá, nên càng khó khăn.
Hiện tượng đầu cơ USD đang gây áp lực mạnh mẽ cung
cầu thị trường ngoại tệ. Việc tỷ giá giữa VND và USD giảm trong vài năm
gần đây, trong bối cảnh USD lại mất giá so trên thị trường thế giới và
hầu hết đồng tiền của các nền kinh tế mới nổi đều tăng giá so với USD...
thể hiện nền kinh tế Việt Nam yếu kém về mặt cơ cấu; thâm hụt cán cân
vãng lai và bội chi ngân sách nhà nước. Vì vậy, không ít người vẫn có
tâm lý lo lắng.
Cần cả “gói giải pháp”
Việc điều chỉnh tỷ giá là đúng, nhưng chưa đủ để
giải quyết mối quan hệ “bộ ba” : lạm phát, tỷ giá và lãi suất. Trong bối
cảnh hiện nay, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong khi chúng ta
mới chỉ làm có một việc là điều chỉnh tỷ giá.
Tôi cho rằng, chúng ta cần làm "cả gói" các giải pháp
thì mới có thể phá vỡ tâm lý lạm phát kỳ vọng. Đầu tiên, phải cho thị
trường thấy rằng, việc điều chỉnh tỷ giá lần này là ổn định và giữ được
giá VND như mức hiện nay trong cả năm 2011. Muốn làm được điều này phải
dựa vào năng lực dự trữ ngoại tệ, khả năng điều hành và tiềm lực can
thiệp thị trường của Chính phủ.
Thứ 2 là phải kiểm soát được giá cả. Chúng ta phải
trả lời được câu hỏi, bao giờ tốc độ tăng giá được kìm lại. Liên quan
đến việc này, một câu hỏi hỏi khác đang đặt ra là Chính phủ có nên tăng
giá các mặt hàng như điện, xăng dầu trong lúc này hay không? Theo tôi là
phải làm. Phải thị trường hóa một số loại giá hiện nay đang bao cấp,
nhưng không thể làm trong một lần vì chênh lệch giữa giá thị trường và
giá bao cấp hiện nay còn quá lớn.
Như vậy phải tính một gói: điều chỉnh tỷ giá ở mức
như hiện nay đã làm (tiếp cận mức 21.000 VND/USD); cộng với giá điện
tăng bao nhiêu, xăng dầu điều chỉnh đên mức nào, cộng thêm cả việc điều
chỉnh lương tối thiểu vào ngày 1/5/2011 nữa... để hình thành một mặt
bằng giá mới ngay trong quý 1/2011 này. Như vậy, khoảng quý 2 trên thị
trường Việt Nam có mặt bằng giá mới và giảm bao cấp một phần các hàng
hoá đang bao cấp.
Giảm tổng cầu là điều kiện tiên quyết
Giảm tổng cầu là điều kiện tiên quyết để ổn định kinh tế vĩ mô cùng với giải pháp tình thế chống đầu cơ ngoại tệ.
Để hướng đến mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và chuẩn
bị điều kiện thực hiện quá trình tái cấu trúc, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng kinh tế, xin đề xuất ban hành ngay “gói giải pháp”.
Thứ nhất, phải chấp nhận một mặt bằng giá mới và các chính sách điều hành phải được tính toán trên mặt bằng mới này.
Ví dụ, chúng ta nói là năm nay mục tiêu tăng CPI là
7%, thì cái "gói" mặt bằng giá mới này "chiếm" hết bao nhiêu trong số
đó. Thậm chí, ngay cả trường hợp “chỉ tiêu 7%“ đã hết ngay trong cuối
quý 2, nhưng cuối năm ổn định vẫn còn hơn cứ "nhích" mỗi tháng một chút.
Theo tôi, phải có một bài toán định lượng cụ thể để tính những việc
này. Cái gói này tác động bao nhiêu, đẩy chi phí mặt bằng kinh tế đến cỡ
nào... Và trên cơ sở đó, chúng ta mới có những chính sách điều hành để
giữ mặt bằng giá mới này.
Nếu chúng ta tăng giá theo kiểu lâu lâu nhích một tí
thì chỉ tin đồn thôi cũng khiến không ít người sợ. Thà là tăng một lần
rồi giữ ổn định mức tăng đó trong một thời gian dài để người dân, doanh
nghiệp có kế hoạch sản xuất, kinh doanh lâu dài của mình. Như vậy, mới
có thể chấm dứt được lạm phát kỳ vọng hiện nay.
Dĩ nhiên không thể thị trường hoá các sản phẩm hàng
hoá đang bao cấp trong một lần, mà cần chia ra theo lộ trình để “chen”
vào khi thời cơ cho phép trong khoảng 3 năm (những lần sau cần có cách
làm để không đẩy mặt bằng giá trên thị trường).
Thứ hai, chính sách tài khóa phải cắt giảm đầu tư
công, giảm bội chi ngân sách. Chính sách tiền tệ phải thắt chặt, tăng
tín dụng 2011 dưới 20%, cung tiền khoảng 15%; sử dụng nguồn tăng thu của
ngân sách năm 2010 để giảm bội chi trong năm 2011. Đặc biệt, phải thắt
chặt chính sách đầu tư để không tạo tăng tổng cầu trong nền kinh tế. Làm
được như vậy sẽ kiềm chế được CPI. Nếu cuối năm có nhích một chút nhưng
vẫn kiểm soát được. Trong điều kiện đó, chúng ta giảm LS, giảm chi phí
cho doanh nghiệp và tạo sự ổn định cho nền kinh tế.
Khi tổng cầu giảm sẽ kéo theo giảm đầu tư và giảm
nhập siêu đáng kể. Cán cân vãng lai sẽ được cải thiện và VND sẽ ổn định
được giá trị của nó.
Thứ ba, xem xét có thể thành lập ngay “Quỹ ổn định tỷ
giá VNĐ” hay một hình thức nào đó cho thấy lực lượng kinh tế nhà nước
đủ sức khống chế thị trường ngoại hối.
Đây là biện pháp tình thế để chống đầu cơ trên thị
trường ngoại hối. Cần tính toán ngay quy mô của Quỹ đủ sức kiềm giữ tỷ
giá VND và công bố mạnh mẽ để tác động vào tâm lý đầu cơ. Xây dựng tỷ
giá dự kiến ổn định cả năm 2011 để làm cơ sở điều hành của NHNN (1USD
tương đương 21.000 đ). Quỹ này được huy động từ 2 nguồn là dự trữ của
NHNN và vay của NHTM quốc doanh và các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước
(tính toán hình thức vay và trả không làm ảnh hưởng đến thanh khoản của
những đơn vị này).
NHNN quản lý Quỹ này để can thiệp thị trường, làm suy giảm mọi nỗ lực của giới đầu cơ.
Giải pháp thứ 3 này mang tính tình thế chủ yếu để “đánh” vào tâm lý đầu cơ bằng công cụ vật chất của nhà nước.
Tất cả các giải pháp trên nên triển khai ngay trong
tháng 3 để ổn định tỷ giá và khoảng quý 2/2011 sẽ ổn định CPI và thực
hiện lộ trình giảm lãi suất từng bước cho đến cuối năm 2011.
Tình hình hiện nay tuy khó, nhưng không phải là không
có cách giải quyết, chỉ cần có sự đồng thuận và quyết tâm của cả hệ
thống chính trị.
Khi thị trường có niềm tin về triển vọng ổn định kinh
tế vĩ mô, kinh tế vẫn tăng trưởng khá. Tôi dự liệu khi thực hiện các
biện pháp mạnh nói trên năm 2011, GDP vẫn tăng trên 6%; CPI sẽ kiểm soát
ở một con số và VND sẽ ổn định ở mức tỷ giá từ 21.000 VND/USD. Song
song với việc thực hiện các giải pháp trên, Thủ tướng Chính phủ cần chỉ
đạo nghiên cứu một kế hoạch tổng thể điều hành nền kinh tế dựa hoàn toàn
trên quan hệ thị trường; một lộ trình giảm đô-la hoá nền kinh tế và các
chính sách để thực hiện kế hoạch tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình
tăng trưởng cho những năm tiếp theo, với quan điểm là Nhà nước sử dụng
các chính sách, biện pháp và công cụ để tác động vào thị trường theo
định hướng của nhà nước xã hội chủ nghĩa; chính thị trường sẽ tác động
vào sự định hướng đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp, chứ không phải
nhà nước.
* Các tiêu đề trong bài do Báo Điện tử Chính phủ đặt