Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Tin tức
Kiềm chế nhập siêu
Ảnh: Google
Quan hệ buôn bán hàng hóa giữa VN với nước ngoài có một số đặc điểm đáng lưu ý: VN liên tục ở vị thế nhập siêu (trừ năm 1992 xuất siêu nhẹ 0,2 tỉ USD).

Nhập siêu ở mức rất cao cả về kim ngạch tuyệt đối, cả về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (năm 2007 là 14,2 tỉ USD, bằng 29,2% xuất khẩu; năm 2008 là 18 tỉ USD, bằng 28,8%; năm 2009 là 12,9 tỉ USD, bằng 22,5%; ước năm 2010 là 12,3 tỉ USD và bằng 17%; ước tháng 1/2011 là 1 tỉ USD, bằng 16,7%). Tuy xuất siêu đối với các thị trường xa (châu Mỹ, châu Âu, châu Đại Dương, châu Phi), nhưng nhập siêu còn lớn hơn đối với thị trường gần (Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia…).

Nhập siêu do các yếu tố sau đây tác động.

Trước hết, do sản xuất trong nước chưa đủ sử dụng (gồm tích lũy và tiêu dùng), mức thiếu hụt vẫn còn chiếm trên dưới 10% GDP. Tỷ lệ tiết kiệm so với GDP năm 2006 đạt 36,3%, năm 2009 còn 29,2%, ước năm 2010 còn 28,5%, trong khi tỷ lệ đầu tư trên GDP lại cao hơn (năm 2006 là 41,5%, năm 2007 là 46,5%, năm 2009 là 42,7%, năm 2010 là 41,9%) - vay nước ngoài trên GDP tăng lên (nếu năm 2006 mới trên 15%, thì năm 2009 lên trên 40%). Nhập siêu cũng theo đó mà lớn lên. Đáng chú ý, có những thiếu hụt không đáng có, hoặc có từ lâu nhưng khắc phục chậm, như thức ăn gia súc, sữa, đường, bột giấy, clinke, công nghiệp phụ trợ... hoặc thuộc nhóm hàng “xa xỉ” như hóa mỹ phẩm, điện thoại di động, ô tô…

Thứ hai, do cơ cấu sản xuất, xuất khẩu chậm chuyển đổi, tính gia công còn lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển; sản xuất trong nước, kể cả sản xuất hàng xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu.

Do hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước thấp, nên “thắng ít trên sân người” (đối với hàng xuất khẩu) và “thua nhiều trên sân nhà” (đối với hàng nhập khẩu). Hiệu quả và sức cạnh tranh thấp do hiệu quả đầu tư thấp (để GDP tăng 1% đòi hỏi tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP lên đến 5- 6%, trong khi các nước chỉ trên dưới 2,5%); do năng suất lao động thấp (chưa được 2.000 USD/người); do chi phí vay vốn cao, chi phí thuê mua mặt bằng sản xuất kinh doanh lớn, do các chi phí bất hợp lý, bất hợp pháp còn cao…

Đặc biệt, trong khi các nước thường sử dụng hàng rào kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu từ VN, thì VN gần như chưa sử dụng hàng rào kỹ thuật với hàng nhập khẩu từ các nước, nhất là tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm…

Bên cạnh đó, trong tư duy một số cán bộ các ngành, các cấp vẫn cho rằng nhập siêu đối với VN là tất yếu và còn lâu dài; trong khi trên thế giới có xu hướng: các nước phát triển thường nhập siêu hàng hóa (để hưởng giá nhân công rẻ, chi phí môi trường thấp), xuất siêu dịch vụ tài chính, bảo hiểm, vận tải biển…để hưởng chênh lệch cánh kéo tỷ giá, lợi thế tài chính…; còn các nước đang phát triển lại xuất siêu lớn (như Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan…).

Nhập siêu không phải do tỷ giá VND/USD thấp. Bởi vì đồng tiền VN chưa chuyển đổi được; cánh kéo tỷ giá hiện rất lớn (1 USD ở VN có sức mua cao gấp trên 3 lần ở Mỹ, thể hiện ở chỗ tỷ giá sức mua tương đương thấp hơn 3 lần tỷ giá hối đoái); tỷ giá hối đoái ở VN tăng cao trong mấy năm nay.

Tỷ giá tăng có tác dụng kích thích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, nhưng quan trọng hơn cả trong việc kiềm chế nhập siêu là cần tác động đến những yếu tố trên.

Ngọc Minh