TỔNG HỢP Ý KIẾN TRAO ĐỔI VÀ THẢO LUẬN BUỔI XEM PHIM & TỌA
ĐÀM "NHIỆT ĐIỆN THAN Ở VIỆT NAM: HIỂM HỌA MÔI TRƯỜNG VÀ GIẢI PHÁP THAY THẾ",
NGÀY 22/10/2016
Chiều ngày 22/10/2016, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Trường
Đại học Mở TP.HCM kết hợp với Trung tâm Liên kết và Hành động vì Phát triển và
Môi trường (CHANGE) đã tổ chức buổi chiếu phim và tọa đàm với chủ đề "NHIỆT
ĐIỆN THAN Ở VIỆT NAM: HIỂM HỌA MÔI TRƯỜNG VÀ GIẢI PHÁP THAY THẾ". Nội dung
của bộ phim cho thấy khắp nơi trên thế
giới, người ta đang quay trở về với than như là một nguồn năng lượng chủ yếu vì
than rẻ, dễ khai thác. Đứng đầu trong xu thế này là Trung Quốc với 3 600 triệu
tấn than một năm chiếm 45% sản lượng thế giới, kế đến là Ấn Độ, Ba Lan và cuối
cùng là Đức. Ở một góc độ khác, than chiếm đến 44% khí thải carbonic trên hành
tinh, một loại khí chủ yếu gây ra hiện tượng hiệu ứng nhà kính. Theo Viện Sức
khỏe của Mỹ, hàng năm than đã khiến gần 2 triệu người chết trên thế giới, chủ yếu
qua đường hô hấp. Than là nguồn năng lượng giết người nhiều nhất hiện nay, giết
những ai phải hít khói bụi ô nhiễm chứa khí carbonic, và giết cả những ai làm
công việc khai thác nó tại mỏ. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu là mạch nước ngầm sẽ
bị ô nhiễm đến cả ngàn năm vì mỏ than này. Người ta khai thác, bóc lột thiên
nhiên và tài nguyên thiên nhiên một cách quá mức.
Ảnh 1: Quang cảnh buổi xem phim tọa đàm
Sau khoảng 1 giờ xem phim, PGS.TS Lê Anh Tuấn, khách mời của chương
trình đã trình bày chuyên đề: “Vì sao nhiệt điện than bị nhiều nơi phản đối?” với
2 nội dung chính (1) Tác động môi trường của nhiệt điện than gồm những gì? (2)
Những giải pháp nào giúp thay thế nhiệt điện than. Theo PGS.TS Lê Anh Tuấn, một
nhà máy nhiệt điện than sẽ tạo nên nhiều loại ô nhiễm như ô nhiễm không khí với
CO2 (khí gây hiệu ứng nhà kính), SO2, các loại khí oxide
nitơ (NOx). Ngoài các loại khí trên, trong không khí xung quanh các
nhà máy nhiệt điện than còn có vô số các hạt bụi lơ lửng (PM2,5; PM10). Các hạt
bụi với kích thước nhỏ này không rơi xuống đất mà lơ lửng trong không khí dễ
dàng bị hít vào hệ hô hấp của người gây ra các bệnh hô hấp mãn tính và có thể
dẫn đến ung thư phổi. Theo một nghiên cứu của Đại học Harvard năm 2015
(Burden of disease from rising coal emissions in Southeast Asia), nếu tiếp tục
phát triển nhiệt điện than như hiện nay, đến năm 2030, mỗi năm Việt Nam có
khoảng 18.000 người chết do ô nhiễm từ nhiệt điện than gây ra. Các loại bụi
than hay xỉ than kích thước to hơn sẽ gây ra ô nhiễm đất trồng ở các môi trường
sống xung quanh nhà máy. Bên cạnh đó, hầu hết các nhà máy này làm mát hệ thống
bằng nước nên nước thải ra sau khi sản xuất với nhiệt độ cao (40oC)
làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái khu vực sông và biển nơi nhận dòng nước thải.
Theo xem xét
của ông trên các báo cáo Đánh giá tác động môi trường của Nhà máy nhiệt điện
Duyên Hải có nhiều vấn đề chưa thực sự đúng với thực tế. Ví dụ như thay đổi xả
thải từ công nghệ ướt sang công nghệ khô, hay bán kính phát tán bụi không phài 2 km mà
lên đến ít nhất 5km. Ngoài các vấn đề trên, nguồn nguyên liệu than để đáp ứng
cho ngành năng lượng này tại Việt Nam là không đủ. Việt Nam sẽ phải nhập than từ
Trung Quốc, Úc và Indonesia nếu tiếp tục xây dựng những nhà máy nhiệt điện than
như kế hoạch thì đến năm 2030 số lượng
nhà máy sẽ là 70. Một thực tế đáng ngạc nhiên khác là theo nghiên cứu của ông,
hiện tại ở Việt Nam từ 2010 – 2014, lượng điện sản xuất nhiều hơn nhu cầu sử dụng.
Trên thế giới hiện nay, nhiệt điện than được xem là ngành năng lượng gây ô nhiễm.
Ở Mỹ, đang đóng cửa dần các nhà máy nhiệt điện than, bắt đầu từ 2015 cho đến
2022.
Như vậy, nếu
muốn tăng lượng điện sản xuất mà không dùng nhiệt điện than thì Việt Nam có thể
chọn lựa các giải pháp nào khác hay không?
Theo PGS.TS
Lê Anh Tuấn, với hơn 4000km bờ biển và với khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa hầu như
cả năm đều có nắng, năng lượng gió và năng lượng mặt trời là hai giải pháp rất
phù hợp cho Việt Nam. Các giải pháp khác có thể dùng như năng lượng sinh học
hay năng lượng dòng chảy (thủy điện). Ông còn nói thêm, các giải pháp thay thế
này hầu như không gây ô nhiễm môi trường và không gây hại cho sức khỏe còn người.
Vốn đầu tư ban đầu hơi cao so với nhiệt điện than nhưng chi phí trong quá trình
vận hành thấp hơn nhiều. Với những số liệu thực tế, chi tiết về ngành nhiệt điện
than, các vấn đề môi trường, xã hội và sơ lược kế hoạch phát triển nhiệt điện
than ở Việt Nam của chính phủ, chuyên đề đã thực sự gây sửng sốt và cung cấp
cho khán giả cái nhìn khách quan và đầy đủ nhất về nhiệt điện than nói chung và
nhiệt điện than tại Việt Nam nói riêng.
Sau báo cáo
chuyên đề, có rất nhiều câu hỏi được đặt ra cho khách mời xoay quanh nhiệt điện
than, hiểm họa nhiệt điện than, giải pháp thay thế và sự hợp lý của kế hoạch
phát triển nhiệt điện than của chính phủ đến năm 2030.
Ảnh 2: PGS.TS Lê Anh Tuấn trình bày tham luận
Đầu tiên là câu hỏi
“Tại sao Việt Nam trong tương lai lại phát triển nhiệt điện than, đây có phải
là giải pháp bắt buộc?”
PGS.TS Lê Anh Tuấn: Câu hỏi này nếu được Chính phủ hay Bộ Công Thương trả lời sẽ
hợp lý hơn. Theo tôi, khi có các chính sách quan trọng như chính sách về năng
lượng, Chính phủ cần có sự tham khảo nghiêm túc và lắng nghe tư vấn của các Nhà
khoa học (Năng lượng, Môi trường, Xã hội). Tuy nhiên thực tế khi ra kế hoạch lại
không có sự tham khảo cần thiết chỉ quan tâm đến quyền lợi của một nhóm thay vì
toàn xã hội.
Hỏi: Trước đây khi
có chủ trương xây dựng nhà máy lọc dầu, hay cho Formosa vào Việt Nam, nhà nước
bất chấp sự cảnh báo từ các nhà khoa học. Hiện nay là đối với nhiệt điện than.
Tại sao nhà nước vẫn thực hiện, có phải do lợi ích thiểu số và không quan tâm đến
sự ảnh hưởng của nó đến tương lai?
PGS.TS Lê Anh Tuấn đáp: Hiện nay với kế hoạch 14-15 nhà máy
nhiệt điện than tại Đồng Bằng Sông Cửu Long khi được thực hiện xong sẽ gây hậu
quả nặng nề về môi trường và xã hội cho khu vực này. Các cuộc đấu tranh của các
nhà khoa học cần mạnh mẽ hơn nữa. Phải giúp cho mọi người trong xã hội hiểu vấn
đề, đặc biệt là lực lượng nhà báo. Đồng thời kết hợp vận động các tỉnh có dự án
nhiệt điện than hủy bỏ dự án. Vừa rồi, tỉnh Bạc Liêu đã vận động bỏ 1 trong 2 dự
án xây dựng nhà máy nhiệt điện than. Tỉnh Long An dự kiến trình chính phủ xem
xét hủy bỏ không triển khai 2 dự án nhiệt điện than tại đây.
Hỏi: Theo trình
bày của thầy từ 2010 – 2014, sản xuất điện và sử dụng điện của Việt Nam có sự
chênh lệch. Xin thầy nói rõ phương pháp thu thập số liệu để có kết quả này.
PGS.TS Lê Anh Tuấn: Tôi thu thập số liệu từ các Hội nghị khoa
học, các báo cáo và lấy số liệu từ các nguồn quen biết của cá nhân.
Hỏi: Tác hại của
nhiệt điện than với con người và môi trường rất nhiều, như vậy nếu không xây dựng
nhà máy nhiệt điện than Việt Nam có giải pháp nào?
PGS.TS Lê Anh Tuấn: Theo tốc độ phát triển hiện nay, Việt Nam
không nhất thiết phải xây dựng tập trung hàng loạt nhà máy nhiệt điện than. Tổng
thống B. Obama khi đến thăm Việt Nam đã đề cập đến việc Mỹ hỗ trợ Việt Nam xây dựng nhà máy điện gió với công suất 1000MW,
như trường hợp ở tỉnh Bạc Liêu. Các nghiên cứu khác trên thế giới cũng có nhận
xét rằng Việt Nam có tiềm năng rất lớn để phát triển ngành năng lượng gió và
năng lượng mặt trời.
Hỏi: Sau khi tiếp
cận nhà máy nhiệt điện than Duyên Hải, Trà Vinh, thầy có chia sẻ gì thêm về tác
hại đối với xã hội do nhân công Trung Quốc và công nghệ Trung Quốc gây ra cho
Việt Nam hay không?
PGS.TS Lê Anh Tuấn: Khi tôi tham quan nhà máy, người hướng dẫn
chỉ nói về lợi thế của nhà máy. Các thông tin thực tế phải thu thập từ khảo sát
và khai thác từ người quen. Trong bán kính từ 5-7km xung quanh nhà máy vẫn nhận
thấy sự hiện diện của bụi than không giống như kết luận trong báo cáo Đánh giá
tác động môi trường. Nhà máy không thông báo cho người dân tác hại từ nhà máy,
các báo cáo này đáng lẽ phải được công bố công khai với cộng đồng. Cộng đồng được
nói đến ở đây bao gồm người chịu ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp từ nhà máy và cả
những người quan tâm đến vấn đề trên.
Một câu hỏi dành
cho đại diện CHANGE: Xin hỏi CHANGE, Trung tâm có gặp khó khăn gì khi làm phóng
sự về vấn đề này tại Bình Thuận không?
Đại diện CHANGE trả lời: là một đơn vị phi lợi nhuận về môi
trường. Tập trung vào các dự án nâng cao nhận thức của người Việt Nam, đặc biệt
là giới trẻ. Nhiệt điện than càng phát triển thì môi trường càng bị ô nhiễm
(không khí, đất, nước), ảnh hưởng đến người dân ở gần và xa nhà máy. Trước khi
CHANGE đến Bình Thuận thực hiện phóng sự trên, đã có nhiều nhà báo đến để làm
phóng sự và đưa tin. Tuy nhiên, mọi việc sau đó vẫn không có biến chuyển khiến
người dân cảm thấy thất vọng. Chính điều này lại gây khó khăn cho CHANGE vì người
dân không còn muốn hợp tác và chia sẻ thông tin nữa.
Hỏi: Qua những gì
chúng ta thảo luận, tôi nhận thấy quyền tiếp cận thông tin của người dân là một
vấn đề khá quan trọng, mặc dù trong thời gian qua rất hạn chế. Tuy nhiên sau
khi có thông tin, người dân phải làm gì để nhà nước thay đổi?
PGS.TS Lê Anh Tuấn: Đầu tiên là cần sự quan tâm của tất cả
các tầng lớp người dân. Sau đó các tác nhân tích cực hơn là các nhà báo, nhà
khoa học. Để thuyết phục mọi người cần có cơ sở khoa học vững chắc, lý luận và
bằng chứng cụ thể. Ngoài ra, cũng cần xem xét phát biểu và chủ trương của nhà
nước để biết tính xác thực. Trong một lần nói chuyện gần đây, tôi có trao đổi với
một quan chức Bộ Công Thương về lí do vì sao phát triển nhiệt điện than ở ĐBSCL
thì được trả lời là Nhà máy nhiệt điện sẽ cần đặt ở nơi có kinh tế phát triển
như Đồng bằng sông Cửu Long vì Nhà máy nhiệt điện sẽ cung cấp năng lượng cho
ĐBSCL đồng thời cũng giảm tiêu hao năng lượng trong quá trình truyền dẫn. Tuy nhiên, ĐBSCL là khu vực phát triển nông nghiệp
không cần nhiều năng lượng như các khu công nghiệp ở khu vực miền Đông (như Đồng
Nai, Sông Bé, Bình Dương) hoặc Saigon, Bà Rịa - Vũng Tàu. Việc phát triển nhiệt
điện than ở ĐBSCL phải cân nhắc cẩn trọng.
Ảnh 3: PGS.TS Lê Anh Tuấn trả lời câu hỏi thảo luận
Hỏi: Mối tương quan của Bộ công thương và địa phương như thế
nào trong các chính sách xây dựng nhà máy nhiệt điện than?
PGS.TS
Lê Anh Tuấn: Từ trước đến nay, chính sách từ cấp trên đưa xuống bên dưới thực
hiện, hầu như không có sự phản bác thực chất. Chiều phản hồi từ địa phương lên
Trung ương hạn chế. Người Việt Nam cần tập sự phản biện với các vấn đề trong xã
hội. Từ nhà trường nên tập cho sinh viên có suy nghĩ độc lập. Các cơ quan ban
ngành ở Trung ương không phải lúc nào cũng đúng. Nếu các nhà Khoa học không phản
biện mạnh mẽ để chỉ ra các sai sót thì có thể sẽ gây ra thiệt hại nặng nề cho
kinh tế và xã hội Việt Nam.
Hỏi: Khó khăn trong việc sử dụng năng lượng tái tạo tại Việt
Nam là gì?
PGS.TS
Lê Anh Tuấn: Khi phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam, đầu tiên sẽ phải đầu
tư một nguồn kinh phí lớn. Ngoài ra giá bán điện bị mua thấp so với đầu tư. Nhiều
kiến nghị từ các nhà khoa học về việc lắp đặt điện năng lượng mặt trời sau đó
đưa lên lưới điện nhưng chưađược đồng ý. Hiện nay, những gì tôi làm được rất nhỏ,
cần có sự góp sức của tất cả mọi người.
Hỏi: Xỉ than có thể ngoài việc đưa vào sản xuất vật liệu xây
dựng còn cách nào giải quyết khác hay không?
PGS.TS
Lê Anh Tuấn: Xỉ than có thể dùng làm vật liệu xây dựng khi trộn với xi măng, bê
tông nhưng lại làm giảm độ cứng vật liệu
và làm tăng chi phí. Nhiều nơi chọn giải
pháp chôn lấp, tuy nhiên giải pháp này vẫn gây ô nhiễm đất tại nơi chôn lấp và
phát tán ra xung quanh do gió, sự di chuyển của người và phương tiện chuyên chở
ra vào khu vực chôn lấp. Ở một số nơi đổ xuống sông, biển gây ô nhiễm nghiêm trọng
hơn. Xử lý các loại chất thải từ sản xuất nhiệt điện than rất khó và cần chi
phí rất cao. Để phát triển toàn diện kinh tế và xã hội, khi đánh giá sự tăng
trưởng GDP cần quan tâm đến tác hại môi trường đi kèm.
Hỏi: Có nhiều giải pháp thay thế, giải pháp nào phù hợp nhất
cho Việt Nam?
PGS.TS
Lê Anh Tuấn: Có rất nhiều loại năng lượng thay thế, tuy nhiên thiếu chính sách
và thiếu đầu tư thì không thực hiện được. Giải pháp khác là tiết kiệm điện bằng
cách sử dụng các thiết bị ít tiêu thụ điện năng, thay thế bằng sản xuất xanh.